Nguyên bản dài hơn của bài viết của tôi cho Mục Góc Nhìn, VnExpress
Năm qua, Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố hai nhân vật cùng đoạt giải Nobel Hòa bình: Kailash Satyarthi, nhà hoạt động vì trẻ em 60 tuổi người Ấn Độ và cô bé Malala Yousafzai người Pakistan, 17 tuổi.
Đối với giới truyền thông và chính trị, thành tựu của Malala không thực sự là một bất ngờ lớn, ngay cả khi em chỉ mới 17 tuổi. Malala là một nhà hoạt động xã hội đấu tranh vì quyền đi học của bé gái tại quê nhà của em, Thung Lũng Swat, Pakistan, nơi quân Taliban từng cấm trẻ em gái đến trường. Cuộc đấu tranh giành quyền đi học của Malala trở thành nguồn cảm hứng cho phong trào toàn cầu ủng hộ tiếp cận giáo dục dành cho phụ nữ. Thế nhưng chính Malala đã phải trả giá cho sự can đảm của mình: em bị bắn vào đầu trên đường đi học hồi năm 2012 và chỉ thoát chết trong gang tấc sau nhiều ngày bất tỉnh. Cho đến hôm nay, mạng sống của Malala vẫn bị đe dọa thường trực bởi các tín đồ hồi giáo cực đoan.
Theo dõi bài phát biểu nhận giải Nobel của Malala, ta dễ dàng nhận thấy em khác những cô bé cùng độ tuổi thế nào. Bằng thứ tiếng Anh còn chưa sõi nhưng trôi chảy và dõng dạc, Malala đã tuyên bố: “Thông điệp của em đến với trẻ em toàn thế giới là các bạn hãy đấu tranh vì quyền lợi của chính mình.”
Điều khiến công chúng bất ngờ, có lẽ không phải là việc Malala đoạt giải thưởng Nobel với những hoạt động mà cô bé đã tham gia, và chính là từ đâu em có được nguồn năng lượng và bản lĩnh để lên tiếng một cách can đảm đến thế. Hoạt động đáng chú ý đầu tiên của Malala bắt đầu năm 11 tuổi, khi em viết blog cho đài BBC về cuộc sống dưới thời Taliban chiếm đóng, và trình bày quan điểm về việc thúc đẩy giáo dục cho trẻ em gái. Đài BBC lúc ấy đang tìm kiếm một nữ sinh có thể viết blog nặc danh về cuộc sống dưới ách Taliban. Qua mối quan hệ với biên tập viên nhà đài, cha của Malala, Ziauddin Yousafzai, một giáo viên địa phương, đã giới thiệu con gái mình làm việc ấy, trong khi tất cả các bậc phụ huynh khác từ chối vì lo lắng cho sự an nguy của con mình. Và trong suốt quãng thời gian sóng gió tiếp sau, khi nguy hiểm rình rập Malala mỗi ngày, cha em vẫn tiếp tục động viên con gái hoạt động xã hội. Sự cổ vũ của cha đã tiếp thêm sức mạnh cho Malala, thúc đẩy em lên kế hoạch trở thành một chính khách, mà như em nhấn mạnh, phải là “một chính khách tốt”.
Câu chuyện của Malala khiến tôi phải suy nghĩ. Câu hỏi đặt ra là: liệu Malala có trở thành một nhà hoạt động xã hội nếu thiếu đi sự khuyến khích từ người cha nhìn xa trông rộng? Tôi nghi ngờ điều đó. Sống trong một đất nước mà nhân quyền, nhất là quyền của phụ nữ, thường xuyên bị xâm phạm, phần lớn trẻ em sẽ có xu hướng tránh bộc lộ bản thân.
Tôi nêu ví dụ này có thể hơi khập khiễng, nhưng Việt Nam cũng là một quốc gia mà tiếng nói của trẻ em thường không được khuyến khích và coi trọng, dù chúng ta đang sống trong hòa bình. Trẻ em Việt Nam được dạy phải tránh xa những điều được cho là có thể gây nguy hiểm đến các em hoặc khác với định hướng của cha mẹ. “Không được tranh luận với cô giáo,” “Thầy nói gì phải nghe nấy,” “Không được chơi với con bé hàng xóm”, “Còn nhỏ đừng can dự chuyện người lớn,” “Còn đi học cấm yêu đương lăng nhăng”… chỉ là một trong số ít những lời “răn” mà nhiều bậc phụ huynh đưa ra với con mình, mà không hề cho phép sự thỏa hiệp hay tranh luận. Nếu như cha của Malala cũng giống như các bậc phụ huynh ấy, có lẽ cô bé sẽ không trở thành một tiếng nói có ảnh hưởng. Có lẽ em sẽ an phận ở nhà, thôi không theo đuổi sự học và chờ đến ngày một chàng trai đến hỏi cưới mình. Và thế giới sẽ không có một nhà hoạt động xã hội với vóc dáng bé nhỏ nhưng mỗi lần em cất tiếng, mọi phòng họp đều trở nên im phăng phắc để lắng nghe lời em nói.
Malala là một trường hợp hiếm có, nhưng không phải là duy nhất hiện nay. Joshua Wong, cậu thiếu niên người Hong Kong chỉ hơn Malala một tuổi, đã hoạt động xã hội từ năm 14 và hiện đang dẫn đầu Scholarism, một nhóm học sinh vận động cải cách giáo dục và quyền bỏ phiếu phổ thông tại Hong Kong bằng việc bãi khóa và ký tên phản đối. Tuy không chịu ảnh hưởng rõ rệt từ phụ huynh như Malala, nhưng trong một cuộc phỏng vấn, Joshua nói rằng cha mẹ cho phép và ủng hộ cậu tự do làm những gì mình tin tưởng. Dù còn những tranh cãi xung quanh các hoạt động của Joshua, nhưng không ai có thể phủ nhận rằng cậu là một thanh niên đầy bản lĩnh có khả năng tạo nên sự thay đổi tích cực đối với sự phát triển xã hội của Hong Kong.
Trường hợp của Joshua làm tôi nhớ lại chuyến đi của mình đến Hong Kong đầu năm nay. Khi đi qua một ga tàu điện ngầm ở Hong Kong, tôi bắt gặp những bức tranh thiếu nhi đoạt giải trong một cuộc thi vẽ địa phương tổ chức vào năm ngoái. Bên dưới các bức tranh có ghi rõ họ tên từng tác giả. Những nét vẽ ấy dễ thương, nhưng còn ngây ngô lắm, và một vị họa sĩ khó tính nào đó đi qua có thể chê cười vì sự hạn chế trong kỹ thuật của chúng, thế nhưng chúng được trưng bày trang trọng ở chốn công cộng. Sự có mặt của những bức tranh ấy như thay cho lời nói: “chúng tôi coi trọng tài năng của các em” của người lớn vậy. Và tôi tin rằng sự khuyến khích ấy của chính quyền Hong Kong sẽ giúp tạo nên một thế hệ nghệ sĩ mới đầy sáng tạo cho thành phố sôi động ấy.
Ở Việt Nam, người lớn thường mặc nhiên cho rằng trẻ em không có quyền quyết định. Tư tưởng “cha mẹ đặt đâu, con ngồi đấy” vẫn ăn sâu đến thời nay. Rất nhiều bạn trẻ 9x vẫn còn chọn nghề nghiệp theo sự yêu cầu, hoặc thậm chí ép buộc của bố mẹ; kết hôn ngoài ý muốn, hoặc kết hôn sớm hơn nhu cầu cá nhân, vì sức ép từ phụ huynh.
Nhưng tôi không nói rằng ở Việt Nam không hề có các bậc phụ huynh tiến bộ. Thực tế là chúng ta đã có, dù không nhiều. Nhờ những bậc cha mẹ như vậy, mà gần đây ta mới thấy các thanh thiếu niên kiếm dược học bổng sang học các trường danh giá tại Mỹ từ khi mới tốt nghiệp cấp ba. Theo dõi những bài phỏng vấn các em, dễ nhận thấy một điểm chung là các em nuôi dưỡng tham vọng từ khi còn rất nhỏ, và không những học hành chăm chỉ mà còn tổ chức các hoạt động xã hội và từ thiện, hay tham gia các cuộc thi quốc tế (có em còn mở triển lãm riêng), và học bổng chỉ là kết quả xứng đáng cho quá trình nỗ lực kéo dài nhiều năm của các em mà thôi.
Nếu không có sự định hướng, hoặc ít nhất là ủng hộ và khuyến khích từ người lớn, liệu chúng ta có thể có những cá nhân trẻ kiệt xuất như vậy hay không?
Tuổi trẻ thường vô tư và đầy nhiệt huyết. Tiếng nói của họ phát xuất từ trái tim trong trẻo không vì lợi ích riêng nên rất đáng tin.
LikeLiked by 1 person
Dạ cũng tùy ạ, cháu thấy nhiều bạn trẻ bây giờ nói dối như cuội, tùy tính người thôi hì hì. Nhưng đầy nhiệt huyết chắc là đúng rồi ạ.
LikeLike