Trích đoạn tiểu thuyết “Bản năng nguy hiểm” (Graceling)

7130nr

Bìa nguyên bản tiếng Anh

Trích “Bản năng nguy hiểm” (Graceling) của tác giả Kristin Cashore. Tác phẩm được Minh Thi dịch sang tiếng Việt, Nhã Nam và Nhà xuất bản Thời Đại phát hành.

Đây là đoạn mình rất yêu thích trong truyện. Đoạn trích này thể hiện phần nào tính cách của hai nhân vật chính (nhất là Po) và sự phát triển mối quan hệ giữa hai nhân vật này – mà không hề spoil nội dung truyện.

Hầu như ngày nào họ cũng ngồi ăn chung sau khi luyện tập. Trong phòng ăn của nàng, chỉ có hai người với nhau, hoặc trong phòng làm việc của Raffin, cùng Raffin và Bann. Có khi họ ngồi bên cái bàn được Raffin bê vào phòng ông Tealiff. Ông cụ còn rất yếu, nhưng khi có người bên cạnh, dường như ông vui vẻ khỏe khắn hơn.

Khi họ ngồi trò chuyện bên nhau, thi thoảng đôi mắt hai màu vàng bạc của Po khiến nàng bối rối. Nàng không sao làm quen được với đôi mắt của chàng; chúng khiến nàng lúng túng. Nhưng nàng vẫn chạm phải đôi mắt ấy khi chàng nhìn nàng, và nàng ép mình thở đều, trò chuyện bình thản. Đó chỉ là đôi mắt thôi mà, chỉ là mắt của chàng thôi, mà nàng đâu phải kẻ nhát gan. Hơn nữa, nàng không muốn đối xử với chàng theo cách cả triều đình này đối xử với nàng, lúc nào cũng lảng tránh mắt nàng, một cách vụng về, lạnh lẽo. Nàng không muốn làm vậy với bạn mình.

Chàng là một người bạn; và trong vài tuần lễ cuối hè, lần đầu tiên trong đời, cung điện của Randa trở thành một nơi dễ chịu với Katsa. Một nơi nàng được luyện tập chăm chỉ và có bạn bè xung quanh. Các mật thám của Oll vẫn đều đặn đi thám thính, cố hết sức lượm lặt thông tin từ những chuyến đi tới Nander và Estill. Các vương quốc, kỳ diệu thay, đều yên bình cả. Không khí oi bức dường như cũng làm dịu đi tính cách khắc nghiệt của Randa, hoặc có thể hắn còn đang lâng lâng vì suối lương thực và hàng hóa hằng năm cứ đến thời điểm này lại đổ vào thành phố từ mọi ngả thông thương. Dù vì lý do gì, Randa cũng không sai Katsa đi xử lý bất cứ việc vặt nào của hắn. Katsa khấp khởi hy vọng sẽ được xả hơi thoải mái đến cuối hè.

Nàng lúc nào cũng nghĩ ra câu hỏi dành cho Po.

“Sao anh lại có tên như thế?” một hôm nàng hỏi khi họ đang ngồi trong phòng của ông chàng, lầm rầm trò chuyện tránh làm ông tỉnh giấc.

Po chườm khăn bọc đá trên vai. “Tên nào cơ? Tôi có nhiều tên lắm.”

Katsa chạy sang bên kia bàn giúp chàng buộc chặt khăn lại. “Po ấy. Ai cũng gọi anh như thế à?”

“Các anh tôi đặt cho tôi cái tên đó khi tôi còn nhỏ. Đó là một loài cây ở Lienid, cây Po. Cứ đến mùa thu lá của chúng lại chuyển sang màu bạc và màu vàng. Một biệt danh không thể tránh.”

Katsa bẻ một miếng bánh mì. Nàng tự hỏi liệu cái tên ấy được đặt cho chàng một cách trìu mến, hay chỉ tại các anh của Po muốn cô lập chàng – nhắc chàng đừng bao giờ quên rằng mình là một Thiên nhân. Nàng quan sát chàng chất lên đĩa nào bánh mì, nào thịt, trái cây, nào pho mát và mỉm cười khi đống thức ăn biến mất gần như ngay sau khi chàng vừa bỏ chúng lên đĩa. Katsa có thể ăn rất nhiều, nhưng Po thì là một hiện tượng.

“Có tới sáu anh trai thì như thế nào nhỉ?”

“Tôi không nghĩ trường hợp của tôi giống với những người khác,” chàng nói. “Người Lienid coi trọng chuyện đấu tay đôi. Các anh tôi là những đấu sĩ cừ, và dĩ nhiên từ hồi nhỏ tôi đã có thể đấu ngang ngửa với họ – rồi cuối cùng còn vượt qua họ, lần lượt từng người một. Họ đối xử với tôi như với người ngang hàng, thậm chí còn hơn cả ngang hàng.”

“Họ cũng là bạn anh chứ?”

“Ồ phải, nhất là mấy anh thứ.”

Có lẽ cuộc sống sẽ dễ dàng hơn đối với một đấu sĩ thiên Nhân là nam giới hoặc sống tại một vương quốc coi trọng đấu tay đôi; mà cũng có thể Thiên Năng của Po không gây ấn tượng mạnh như Thiên Năng của nàng. Có lẽ nếu có sáu ông anh trai, Katsa cũng sẽ có sáu người bạn.

Hoặc có thể ở Lienid mọi thứ đều khác.

“Tôi nghe nói lâu đài ở Lienid được xây trên những đỉnh núi cao tới mức nguời ta phải leo lên bằng dây thừng,” nàng nói.

Po toét miệng cười. “Chỉ thành phố của cha tôi mới dùng dây thừng.” Chàng tự rót thêm nước và quay lại với đĩa thức ăn.

“Vậy sao?” Katsa nói. “Anh không định giải thích cho tôi nghe sao?”

“Katsa à. Liệu có quá khó để cô hiểu rằng một chàng trai có thể đói meo sau khi bị cô nện cho nhừ tử không? Tôi đang nghĩ rằng hạn chế tôi ăn uống cũng là một phần trong chiến thuật của cô đấy. Chắc cô muốn tôi yếu ớt ẻo lả ấy nhỉ.”

“Với một đấu sĩ hàng đầu Lienid, thì thể trạng anh có vẻ hơi yếu đấy,” nàng đáp.

Chàng phá lên cười và buông đĩa. “Được rồi, được rồi. Vậy tôi phải miêu tả thế nào đây nhỉ?” Chàng lại cầm dĩa lên, vừa nói vừa dùng dĩa vẽ vào không trung. “Thành phố của cha tôi nằm trên đỉnh một khối đá rất to và cao, cao như một ngọn núi vậy, nó mọc lên từ miền đồng bằng bên dưới. Có ba cách để đi lên thành phố đó. Cách thứ nhất thì chậm, phải đi qua con đường được xây men theo sườn đá, uốn lượn quanh khối đá. Cách thứ hai là qua một cầu thang xây ở một bên sườn đá. Cầu thang này uốn khúc lắt léo cho tới khi lên tới đỉnh. Đó là một cách hay, nếu như người ta khỏe, tỉnh táo và không có ngựa, mặc dù hầu hết những người chọn lối này cuối cùng đều mệt lả và sau rốt phải xin đi nhờ ai đó cưỡi ngựa trên đường. Anh em chúng tôi thi thoảng cũng đua với nhau theo lối ấy.

“Ai thắng?”

“Cô không tin vào tôi hay sao mà lại hỏi thế? Là cô thì dĩ nhiên sẽ thắng tất cả chúng tôi rồi.”

“Khả năng giao đấu của tôi không liên quan gì đến khả năng leo bậc thang.”

“Dù có vậy, tôi cũng không thể tưởng tượng ai đó hạ gục cô trong bất cứ chuyện gì.”

Katsa khịt mũi. “Thế còn cách thứ ba?”

“Cách thứ ba là dùng dây thừng.”

“Nhưng leo thế nào?”

Po gãi đầu. “À, thật ra cũng khá là đơn giản. Dây thừng được buộc vào một bánh xe khổng lồ nằm trên đỉnh khối đá. Chúng được thả lủng lẳng xuống duới, và ở dưới chân khối đá thì chúng được buộc vào những cái bục. Lũ ngựa quay bánh xe, bánh xe kéo dây dừng và kéo những cái bục lên.”

“Có vẻ phiền phức nhỉ.”

“Phần lớn mọi người đi theo đường bộ. Dây thừng chỉ dành cho việc vận chuyển đồ đạc với khối lượng lớn.”

“Và cả thành phố lơ lửng trên bầu trời ư?”

Po bẻ một miếng bánh mì nữa và gật đầu.

“Nhưng tại sao người ta lại xây thành phố ở một nơi như thế nhỉ?”

Po nhún vai. “Chắc là vì nó đẹp.”

“Ý anh là sao?”

“À, từ trên thành phố nhìn xuống, cô có thể ngắm nhìn không biết chán. Những cánh đồng, núi đồi. Và một bên là biển.”

“Biển à!” Katsa thốt lên.

Biển chấm dứt chuỗi câu hỏi của Katsa trong một lúc. Katsa đã từng trông thấy hồ ở Nander, một vài cái hồ lớn tới mức nàng gần như không thấy bờ bên kia. Nhưng nàng chưa bao giờ thấy biển. Nàng không thể tưởng tượng được biển nước mênh mông đến nhường nào. Nàng cũng không thể tưởng tượng được những con sóng khi dịu dàng hát ru, khi gầm gào đổ ập vào đất liền như nàng từng nghe kể về biển. Nàng lơ đãng nhìn lên những bức tường trong căn phòng nhỏ của ông Tealiff, tưởng tượng về điều đó.

“Từ trên thành phố, cô có thể trông thấy hai trong số các lâu đài của các anh tôi,” Po nói. “Dưới chân các ngọn núi. Các lâu đài khác nằm tận phía bên kia núi hoặc xa khuất tầm mắt.”

“Có bao nhiêu lâu đài?”

“Bảy,” Po đáp, “vì có bảy người con trai.”

“Vậy là một trong số đó là lâu đài của anh.”

“Lâu đài nhỏ nhất.”

“Anh có phiền không khi lâu đài của mình nhỏ nhất?”

Po lựa một quả táo trong bát hoa quả trên bàn. “Tôi mừng vì lâu đài của tôi nhỏ nhất, dù khi nghe nói vậy các anh tôi không chịu tin.”

Nàng không lấy làm lạ khi họ không tin chàng. Nàng chưa từng biết một người đàn ông nào, kể cả anh họ nàng, mà lại không muốn có một dinh cơ thật rộng, càng rộng càng tốt. Giddon lúc nào cũng so sánh miếng đất của mình với đất nhà hàng xóm; và khi than phiền về Thigpen, Raffin không bao giờ quên nhắc đến một vụ tranh chấp liên quan đến việc xác định biên giới phía đông của Middluns. Nàng đinh ninh đàn ông ai cũng như vậy cả. Nàng nghĩ nàng không vậy bởi nàng không phải là đàn ông.

“Tôi không có những tham vọng giống như các anh tôi,” Po nói. “Tôi chưa bao giờ muốn một dinh cơ rộng lớn. Tôi chưa bao giờ muốn làm vua hay lãnh chúa.”

“Tôi cũng vậy,” Katsa nói. “Tôi đã tạ ơn trời đất không biết bao nhiêu lần vì Raffin là con trai của Randa, còn tôi chỉ là cháu, con của em gái ông ấy.”

“Các anh tôi đều khao khát quyền lực,” chàng nói. “Họ muốn dự phần vào những vụ tranh chấp trong triều đình của cha tôi. Họ thực sự đam mê chuyện đó. Họ thích cai quản lâu đài cũng như thành phố của riêng mình. Đôi khi tôi có cảm giác tất cả các anh đều muốn làm vua.”

Chàng tựa người trên ghế, lơ đãng mân mê bên vai đau.

“Lâu đài của tôi không có thành phố nào,” chàng nói. “Nó khá gần một thị trấn, nhưng thị trấn đó là một khu tự trị. Cũng chẳng có cung điện nào hết. Thực sự nó chỉ là ngôi nhà lớn để tôi tá túc những lúc không du ngoạn mà thôi.”

Katsa nhón lấy một quả táo. “Vậy là anh thích đi đây đi đó.”

“Tôi hiếu động hơn so với các anh. Nhưng lâu đài của tôi đẹp lắm; nó là chốn đi về tuyệt vời nhất. Nó nằm trên một vách đá trên biển. Trên vách đá có những bậc thang dẫn xuống biển. Còn có những ban công lơ lửng trên vách đá – cô sẽ cảm thấy như sắp ngã nếu nhoài người ra quá xa. Tối đến, lúc mặt trời lặn, cả bầu trời chuyển sang màu đỏ và cam, phản chiếu lên mặt biển. Đôi khi ngoài đó còn có cá to nữa, những con cá mang nhiều màu sắc khó tin. Chúng ngoi lên bờ và lượn qua lượn lại – cô có thể ngắm nghía chúng bơi lội từ trên ban công. Rồi tới mùa đông, sóng dâng lên rất cao, còn gió đủ sức quật ngã người. Không thể ra ban công vào mùa đông. Thời tiết nguy hiểm và dữ dội lắm.”

Một số giải thưởng mà cuốn sách đã giành được (bên cạnh nhiều giải thưởng và đề cử khác):

  • Bìa phiên bản tiếng Việt:
  •  Ban nang nguy hiem

Bình luận của độc giả về Graceling trên Goodreads: http://www.goodreads.com/book/show/3236307-graceling

Leave a Reply / Hoan nghênh bạn để lại phản hồi

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s