
Năm ngoái có một bộ phim mình không hẳn rất thích, nhưng để lại cho mình ít nhiều suy nghĩ về cuộc sống. Đó là ‘Abiding nowhere’ (tạm dịch: Phiêu bạt vô định) của đạo diễn Thái Minh Lượng. Phim rất đơn giản nhưng thực ra khá khó xem, vì suốt từ đầu đến cuối, phim hầu như chỉ mô tả ‘chuyện’ một vị thiền sư đi chậm với tốc độ cỡ… x0.25 giữa nhiều bối cảnh bao gồm chốn phố xá đông người ở nước Mỹ. Nhiều khi một cảnh phim chỉ có đúng hình ảnh vị sư đi từ đầu này sang đầu kia của khung hình. Đáng chú ý là vị sư ấy kiên định giữ nguyên một nhịp độ vô cùng chậm rãi, mặc cho thế gian biến động thế nào. Dù xung quanh có hay không có người, tĩnh lặng hay ồn ào, thiền sư vẫn bước từng bước một trên đôi chân trần của ông.
Với bộ phim này, mình lại áp dụng câu nói kinh điển ‘The medium is the message’ (phương thiện là thông điệp) của Marshall McLuhan, dù có thể sự áp dụng này hơi linh hoạt. Đại để sự hiểu của mình với bộ phim là, nội dung phim không quan trọng bằng cách thể hiện (approach). Thậm chí phim hầu như không có nội dung mà cách thể hiện chính là thông điệp của bộ phim. Sự đặc biệt của nó không phải là câu chuyện (narrative), mà là cái cách người xem phim bị ép phải làm quen với nhịp độ chậm rì của nó. Đó là lý do bạn bắt buộc phải xem phim này trên màn hình lớn, trong rạp chiếu phim, nếu không hầu như sẽ không có cách nào bạn cảm được nó. Vì khi đã dành thời gian đến xem phim và buộc phải đối diện với một màn hình lớn (nghĩa là bạn không thể check smartphone, không thể làm việc riêng), bạn buộc phải chú tâm vào nó. Tính thể nghiệm (experimental) của bộ phim chính là ở đó, ở cách nó ép buộc người xem làm quen với một nhịp độ rất khác với cuộc sống thường ngày. Thực tế khi bạn xem hầu hết các phim hiện nay, bạn thậm chí không xem với tốc độ x1 y như cuộc sống thực (real life), mà bạn xem với tốc độ đâu đó x1.25, thậm chí x1.5 với những cảnh tương tác nhanh, như trong phim hành động chẳng hạn. Nhưng điều thú vị mà bộ phim ‘dạy’ mình đó là, nhịp độ là thứ bạn có thể làm quen. Ban đầu mới xem phim mình thấy ngứa ngáy khó chịu, nhưng về sau mình quen dần đi, mặc dù phải thú thật là mình vẫn vừa xem vừa nhìn cái đồng hồ treo ngay bên cửa trái rạp chiếu phim hôm ấy. Nhịp độ (pace) có thể chỉ là cảm giác chủ quan (subjective perception) của mình mà thôi, nếu ta đã quen với ‘nhanh’ cỡ này thì ta sẽ cảm thấy thế kia là ‘quá chậm.’
Cái cách bộ phim ép mình làm quen với nhịp độ rất chậm của nó khiến mình suy nghĩ về cuộc sống thường ngày. Về cái cách mình dễ dàng trở nên bứt rứt, khó chịu khi một cái gì đó diễn ra ‘quá chậm.’ Cái cách mình ‘không thể chờ’ (can’t wait) để được giải trí, để đọc (cho xong) cái gì đó, xem (cho xong) cái gì đó, học (cho xong) cái gì đó. Mình cứ lướt đi theo tốc độ của cuộc sống hiện đại, cố gắng rượt đuổi thứ này thứ nọ cho kịp người này, người kia, cho đạt mục đích này cho kịp hạn định kia, mà quên mất rằng cuộc sống đang nằm ở chính phút giây này. Và khi mình rượt đuổi theo những mục tiêu và hạn định ấy, cuộc sống trôi đi lúc nào mình không hay. Chính là khi rượt đuổi, ta quên đi cuộc sống, quên đi chính bản thân mình. Quên đi cách hít thở (breathe), cách ngắm nhìn (look), cách cảm nhận (sense), cách tận hưởng (enjoy), cách trân trọng (appreciate) hiện tại mình đang có. Cái cách vị thiền sư giữ nguyên một nhịp độ giữa thế gian ùn ùn chuyển động, có thể xem như một cách ‘giữ mình’ và sống trong hiện tại vậy. Dẫu chẳng thể nào ‘tắt nắng đi’ hay ‘buộc gió lại’ như Xuân Diệu mong cầu, nhưng cách tốt nhất để níu giữ cuộc sống này, có lẽ chính là học cách bước chậm giữa thế gian đổi dời như thế.













