Lần đầu mình có dịp tham dự liên hoan phim London BFI để xem bộ phim Việt Nam đoạt giải Máy quay vàng cho phim đầu tay tại Cannes. Bộ phim xoay quanh niềm tin (tôn giáo), một chủ đề xa lạ với mình, nhưng cách tiếp cận thì khá gần gũi.
Mình là người gần vô thần, nên mình không đồng cảm với hành trình tâm linh hay những câu hỏi liên quan đến tôn giáo mà bộ phim đặt ra lắm. Bộ phim có vẻ cũng không nhắm đến việc đưa ra câu trả lời, mà chỉ mời khán giả cùng ‘bước’ vào câu chuyện, theo chân nhân vật chính Thiện trong hành trình của anh. Thay vì truyền tải một góc nhìn hay đưa ra một câu trả lời cụ thể, phim mô tả cách nhân vật tìm tòi góc nhìn của những người xung quanh. Mình nghĩ đây cũng là cách tiếp cận phù hợp, vì một bộ phim về tôn giáo mà sa vào giáo điều thì sẽ gây phản cảm vì sự áp đặt của nó. Phim là một chuỗi các sự kiện và đối thoại xảy ra sau biến cố của gia đình Thiện: chị dâu anh đột ngột qua đời, để lại cậu con trai nhỏ. Thiện phải về quê lo hậu sự cho chị, chăm lo cho đứa cháu, sau đó đi tìm người anh trai đã bỏ đi, bố của cháu bé.

Dù không bận tâm mấy đến câu chuyện tâm linh, nhưng mình vẫn thích Vỏ kén vàng bởi câu chuyện đời thường. Thú thật là đối với một người mấy năm hầu như không ở Việt Nam như mình, chỉ cần xem cảnh sinh hoạt thường nhật ở Việt Nam thôi, mình đã thích – với điều kiện quay phải đẹp. Phim có rất nhiều cảnh quay mình thích: cảnh ba người bạn ngồi nhậu với nhau trên vỉa hè ở đầu phim, cảnh Thiện ngồi hát karaoke một mình, các cảnh đưa tang, và toàn bộ cảnh nông thôn Việt Nam (gần đây hiếm thấy nông thôn Việt Nam lên phim những năm gần đây, thực sự đáng tiếc). Mình đặc biệt thích cách bộ phim “chơi” với ánh sáng ở các thời điểm khác nhau trong ngày (sáng sớm, trưa chiều, chập choạng tối, nhá nhem tối, nửa sáng nửa tối, và cả tối hẳn) và các điều kiện thời tiết khác nhau (nắng, mưa, sương mù..); và sử dụng nhiều bối cảnh khác nhau: đô thị/nông thôn, trong nhà/ngoài phố, chuyển động (trong xe ô tô, trên xe máy)/tĩnh lặng (nhân vật đứng yên, thậm chí không có mặt, chỉ nghe thấy tiếng nói).

Nãy giờ mình toàn nói đến cảnh quay và quay phim, thì mọi người chắc sẽ nghĩ phim chỉ hay ở kỹ thuật thôi phải không? Thực ra trong trường hợp này, mình cho rằng the medium is the message (phương tiện là thông điệp?), như Marshall McLuhan từng nói. Để cảm bộ phim này, nhất thiết ta phải coi the form as the content, phải yêu hình ảnh của nó, phải chăm chú vào từng khung hình. Vì mình tin từng khung hình ấy là tất cả tình cảm, nhiệt huyết, và cả ý đồ của nhà làm phim.

Nói là nói vậy, nhưng lời thoại của phim cũng có những đoạn khá thú vị. Mình đặc biệt thích những cảnh Thiện bên cháu trai. Cái cách anh trả lời cháu về sự vắng mặt của người mẹ rất thú vị. Anh không bao giờ nói với cậu bé, là mẹ cháu qua đời rồi. Có thể hiện thực đó quá tàn nhẫn để anh nói thành lời, hoặc giả anh không hẳn tin rằng chết là hết. Anh chỉ nói là hiện giờ cháu chưa thể gặp mẹ. Khi thằng bé nói muốn đến gặp mẹ, anh nói, ‘để từ từ chú dẫn đi.’ Và thằng bé dường như cũng từ từ hiểu ra.

Thiện là một người đàn ông cô độc. Nhưng ta ít khi thấy anh chỉ có một mình. Anh thường xuất hiện bên một người hoặc một vài người, trò chuyện cùng họ, hoặc chỉ im lặng nghe họ nói. Tuy đôi lúc anh cũng xuất hiện một mình trong khung hình, nhưng ta ít có cảm giác anh thực sự là trung tâm của câu chuyện. Thường thì anh đặt câu hỏi, và người khác trả lời. Những câu chuyện thường là câu chuyện về người khác, hoặc một cái gì đó bên ngoài cuộc sống của Thiện. Thiện thắc mắc về những điều lớn lao hơn bản thân anh, và ta cũng biết mình không chỉ đang khám phá cuộc sống của riêng anh. Mình thích cách bộ phim không chỉ truyền tải một góc nhìn, mà mô tả cách nhân vật tìm tòi góc nhìn của người khác. Đó là yếu tố khiến mình cảm nhận bộ phim không ‘giả trân’, mà rất chân thành.

Một yếu tố nữa làm nên sự ‘chân thành’ ấy là việc toàn bộ dàn diễn viên hầu như là không chuyên. Đa phần họ thậm chí còn chưa bao giờ đóng phim. Và ngoại trừ hai cô gái làm nghề phục vụ khá đẹp xuất hiện ngay đầu phim, không một ai có ngoại hình nổi bật. Họ giống như bất cứ ai ta gặp ở ngoài đời. Không một ai áp đảo khung hình vì vẻ đẹp nổi bật của mình – họ đều chỉ là một phần của khung cảnh. Điều đó khiến mình cảm thấy phim ‘thật’ hơn cả. ‘Thật’ tất nhiên không phải là không có dàn cảnh, không có sắp đặt, vì đây là một bộ phim cơ mà; ‘thật’ ở đây là nhân vật ít tô vẽ và cường điệu nhất có thể. Đặc biệt, những cảnh về sinh hoạt của đồng bào công giáo ở một miền quê tạo cho mình cảm giác đang xem một bộ phim tài liệu về một cộng đồng tôn giáo mà mình ít có dịp tiếp xúc, rất thú vị.
Mình chỉ có hai điểm trừ duy nhất với bộ phim: một vài cảnh quay diễn viên còn hơi vụng về (nhưng không đến nỗi gợn), và thú thật là phim hơi dài quá (ba tiếng): nếu là mình thì mình sẽ cắt đi một chút ở nửa cuối. Còn tổng thể, mình thấy đây là một bộ phim đẹp và đáng nhớ, một đóng góp có giá trị cho điện ảnh Việt Nam và thế giới.













